KỶ NIỆM 94 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (03/02/1930-03/02/2024): LỊCH SỬ ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TA – NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng nhằm giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng ta. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ ta, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Đây cũng là nhiệm vụ lâu dài, xuyên suốt và liên tục kể từ khi thành lập Đảng đến nay. Thực tiễn lịch sử của quá trình đấu tranh trên đã để lại nhiều kinh nghiệm quý, hữu ích cho công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay.

1. Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là gì? Tại sao phải bảo vệ nền tảng tư tưởng?

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1]. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Người, từ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[2]. Như vậy, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giành chính quyền, đập tan xiềng xích đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, tiếp đến là hai cuộc kháng chiến trường kỳ để giành lại độc lập, tự do toàn  vẹn cho dân tộc, đưa đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau 35 năm đổi mới, nước ta luôn giữ vững ổn định chính trị, xã hội “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay”[3]… Như vậy, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn để đưa cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là minh chứng sống động và thuyết phục, khẳng định tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Với vị trí, vai trò quan trọng như trên, nên các thế lực thù địch không ngừng chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng luôn tìm mọi cách nói xấu, bôi nhọ, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng ta, hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, chệch hướng, từ đó làm giảm sức chiến đấu của Đảng, phá hoại sự nghiệp cách mạng mà Đảng ta lãnh đạo. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng được nhận thức từ rất sớm và ngày càng trở thành công việc liên tục, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng.

2. Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng qua các thời kỳ

Ngay từ khi Đảng chưa ra đời, năm 1927, trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “phải giữ chủ nghĩa cho vững”, “Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt” và “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”[4]. Không giữ vững chủ nghĩa thì không thể xác định rõ đường lối, chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng; không thể tập hợp lực lượng, gây dựng phong trào, lôi cuốn quần chúng tham gia đấu tranh thực hiện lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề hệ trọng đầu tiên để giữ vững bản chất của một Đảng cách mạng chân chính, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Những năm 1936 – 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ, đề ra mục tiêu đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, ủng hộ Mặt trận bình dân Pháp, tổ chức phong trào Đông Dương đại hội để tập hợp quần chúng, gửi dân nguyện lên Chính phủ Pháp… Những chủ trương đó là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng và đường lối của Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, một nhóm người (chủ yếu từ Pháp về) theo xu hướng tơ-rốt-xkít mưu đồ lập một đảng riêng để chống lại đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản. Nhóm tơ-rốt-xkít đó đưa ra những khẩu hiệu “tả” cho rằng Đảng Cộng Sản Đông Dương nhân nhượng kẻ thù, cốt để lừa bịp, lôi kéo quần chúng, làm nhân dân lầm tưởng họ mới là những người cách mạng. Trước tình hình đó, đồng chí Tổng Bí thư Hà Huy Tập (bút danh Thanh Hương) viết tác phẩm “Tơ-rốt-xkít và phản cách mạng”; đồng  chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết “Tự chỉ trích” nhằm đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của phái tơ-rốt-xkít, tạo sự thống nhất về nhận thức về tư tưởng, chính trị và hành động trong toàn Đảng. Qua cuộc đấu tranh về tư tưởng, Đảng được xây dựng, trưởng thành, giữ vững vai trò lãnh đạo; nhân dân thêm tin tưởng vào Đảng; từ đó dưới sự hướng dẫn của Đảng mà làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (viết tắt là CNXH) và kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), Đại hội III (1960) của Đảng đề ra nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa cơ hội, xét lại ra sức chống lại chủ nghĩa Mác, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin. Tháng 12-1963, Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 9 “về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng”. Nghị quyết khẳng định lập trường kiên định của Đảng; kiên quyết đấu tranh bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Nhờ vậy, mặc dù các phần tử phản động, cơ hội quyết liệt chống phá nhưng Đảng luôn giữ vững đoàn kết, thống nhất về tư tưởng, lý luận, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên xây dựng CNXH.

Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Các thế lực thù địch nhân cơ hội đó trỗi dậy, tìm mọi cách công kích và phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin. Họ cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ “sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác – Lênin” và bởi, “chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”[5]. Những luận điệu đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với các hình thức, diễn đàn khác nhau nhằm phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Xuất phát từ lập luận đó, họ cho rằng hiện nay “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”[6]. Đây thực sự là một thử thách rất lớn đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã sớm nhận thấy tình hình phức tạp của các Đảng và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới nên đã nêu cao tinh thần đấu tranh chủ động phòng ngừa sự chống phá của các thế lực thù địch. Sự chủ động và quyết tâm của Đảng được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI khi đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đổi mới đúng hướng, đúng mục tiêu và có hiệu quả. Trong Nghị quyết, Đảng ta khẳng định tính chất của công cuộc đổi mới ở Việt Nam không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đồng thời, Đảng ta còn nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[7]. Sự khẳng định này đã cho thấy bản lĩnh và quyết tâm rất lớn của Đảng trong việc kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, bất chấp mọi sự chống phá của các thế lực thù địch.

Tháng 8/1989, Hội nghị Trung ương 7 khóa VI của Đảng ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”. Trung ương đã nhận định 6 điểm về những sai lầm trong cải tổ, cải cách của một số đảng về thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng, dân chủ hóa không giới hạn, hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ nhận thành tựu của lịch sử, của chủ nghĩa xã hội, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, khiến đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào chính lý tưởng mà mình đã theo đuổi. Từ đó, Nghị quyết Trung ương 7 khóa VI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng”[8].

Đặc biệt nhất, trong hoàn cảnh cam go, khó khăn, phức tạp đó, Đảng ta ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991). Cương lĩnh xác định Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động và Việt Nam vẫn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lúc bấy giờ, toàn bộ mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng hướng vào làm sáng tỏ và sâu sắc hơn bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định tính tất yếu của con đường xã hội chủ nghĩa; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu sai trái, thù địch. Đây là một Cương lĩnh rất quan trọng của thời kỳ đổi mới, khẳng định rất rõ sự kiên trì, quyết tâm của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng mặc dù đang trong hoàn cảnh “cơn địa chấn chính trị” vừa mới xảy ra.

Từ sau Cương lĩnh, căn cứ vào tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn, Đảng ta tiếp tục đưa ra những chỉ đạo cụ thể về việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch như Nghị quyết số 01-NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” (tháng 3/1992); Nghị quyết số 09-NQ/TW “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” (tháng 2/1995); đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2012), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (năm 2016).

Đặc biệt, việc lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng được thể hiện đậm nét nhất trong Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 22/10/2018) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan báo chí tuyên truyền các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị – xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

 Đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nhận thức sâu sắc sự nguy hại và hậu quả nghiêm trọng của việc xa rời nền tảng tư tưởng, Báo cáo chính trị đặt lên hàng đầu quan điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[9]. Kết luận 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp thực tiễn Việt Nam”[10].

Như vậy, lịch sử hơn 93 năm qua đã cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn kiên trì, kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng và luôn kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Nhờ vậy, Đảng ta luôn giữ vững bản chất cách mạng, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu, lãnh đạo cách mạng đạt những thắng lợi vẻ vang.

3. Những kết quả đạt được

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng.

Một là, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ, phát triển và làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội Việt Nam; đồng thời vô hiệu hóa các luận điệu và hoạt động phá hoại tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị; bảo vệ thành công các quan điểm, tư tưởng đổi mới của Đảng. Ngoài ra, sự lãnh đạo của Đảng cũng góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.

Hai là, chủ động phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế ở Việt Nam như ý đồ “tư nhân hóa” nền kinh tế, tấn công vào vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; giúp cho nền kinh tế Việt Nam giữ được độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài, giữ vững định hướng XHCN.

Ba là, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam; lợi dụng đổi mới để gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo; lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam. Đảng không ngừng củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội. Làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. 

Bốn là, làm thất bại mưu đồ bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam, cản trở Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế. Việt Nam tạo được môi trường thuận lợi phục vụ cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao; tranh thủ được nhiều diễn đàn quốc tế để đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.

Những kết quả đó đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội XIII như sau: “công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”[11]. Đặc biệt, Đảng ta đã nhấn mạnh thêm những kết quả đạt được trong việc chỉ đạo công tác công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng: “Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả rõ rệt”[12]. Đây là một bước tiến rất lớn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn khi các thế lực thù địch ra sức lợi dụng không giang mạng để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng có những hạn chế nhất định, nhất là công tác nắm bắt dư luận và định hướng tư tưởng: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”[13]. “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”.

4. Những bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn lịch sử Đảng ta, từ những kết quả nhất định và những hạn chế còn tồn tại, quá trình Đảng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc:

Một là, trong bất kể hoàn cảnh và tình thế nào cũng cần kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn, địa phương, đơn vị. Chủ  tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn học tập, trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là thuộc lòng câu chữ mà nắm vững bản chất, phương pháp khoa học của học thuyết đó. Do đó, cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu nhằm tiếp tục khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, cần chắt lọc, đề xuất những vấn đề cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn nước ta giai đoạn hiện nay. Đảng ta cần kiên trì nhưng không bảo thủ, giáo điều; bổ sung, phát triển nhưng không xa rời những lý luận nền tảng, những nguyên tắc cơ bản.

Hai là, chú trọng công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức và trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận chính trị; có ý thức khắc phục triệt để bệnh “lười” học tập lý luận chính trị để không ngừng củng cố, nâng cao kiến thức, tăng “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.

Ba là, luôn luôn tỉnh táo phòng ngừa, chủ động và kiên quyết đấu tranh phê phán mọi nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái và thù địch. Điều quan trọng nhất là không bao giờ được nhân nhượng, thỏa hiệp về tư tưởng, lý luận; càng không được rút lui, hạ vũ khí trên mặt trận tư tưởng. Cán bộ lý luận cũng như cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nắm vững, thấu hiểu sâu sắc giá trị khoa học, hiện thực, bản chất, linh hồn sống và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đấu tranh phê phán có chiều sâu, thuyết phục và có hiệu quả. Từ thực tiễn, thành tựu của cách mạng Việt Nam mà làm sáng tỏ, chứng minh tính đúng đắn của hệ tư tưởng, lý luận và khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, kết hợp lý luận và thực tiễn quyết định thắng lợi của cách mạng.

Bốn là, hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách, pháp luật liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, quản lý tốt và nâng cao vai trò của báo chí, truyền thông. Các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo,… để vu cáo, xuyên tạc, đả kích sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nói xấu chế độ. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước đã hoàn thiện nền dân chủ XHCN, thực hiện tốt hơn quy chế, pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Thực hiện đúng đắn quyền con người theo công ước quốc tế và theo Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam. Xử lý các thế lực chống đối về tư tưởng cũng theo quy định của pháp luật.

Các thời điểm đấu tranh tư tưởng quyết liệt trước đây, vai trò của báo chí và các phương tiện truyền thống là vô cùng quan trọng nhằm định hướng đúng đắn nhận thức trong Đảng và trong xã hội, phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, những nhận thức mơ hồ, lệch lạc. Trong giai đoạn hiện nay, khi công nghệ truyền thông, internet, các loại hình báo viết, báo hình, báo nói, báo điện tử phát triển thì càng coi trọng công việc quản lý báo chí, truyền thông để bảo đảm sự đóng góp tích cực và lành mạnh của báo chí.

Những kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch được Đảng tổng kết kịp thời trên mặt trận tư tưởng. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đó cũng là vấn đề rất quan trọng đặt ra trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, không chỉ chống các thế lực thù địch về tư tưởng, ý thức hệ mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.  

Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đã chứng tỏ những người cách mạng chúng ta đang đi đúng hướng. Vì vậy, những quan điểm sai trái, thù địch cần phải được quét sạch trên con đường đi của chúng ta. Bản thân các cán bộ, đảng viên càng cần phải nhận thức rõ hơn về nền tảng tư tưởng, nhận thức công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng là việc làm thường xuyên, có thái độ tích cực, kiên quyết hơn. Trên cơ sở đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng sẽ vượt qua mọi thách thức và ngày càng thành công./.

Để lại một bình luận